Lịch sử chương trình Visa EB-5
Chương trình di dân theo diện đầu tư EB-5 được chấp thuận bởi Quốc hội Mỹ theo Đạo luật Di trú năm 1990 (IMMACT90). Đạo luật này đã cơ cấu lại đáng kể hệ thống di trú của Mỹ và đưa ra những thay đổi đối với các loại visa không định cư, các quy định trục xuất, tăng hạn định nhập cư hợp pháp. Quốc hội đã quyết định thành lập chương trình EB-5 để kích thích nền kinh tế của Mỹ thông qua việc tạo cơ hội cho những doanh nhân nước ngoài đầu tư vào doanh nghiệp thương mại của Mỹ được sống và làm việc vĩnh viễn tại Mỹ. Vào năm 1993, Quốc hội đã tạo ra Chương trình Thí điểm Đầu tư Định cư được thực hiện vào cùng thời gian để khuyến khích mối quan tâm vào chương trình visa EB-5. Chương trình thí điểm mới này đã hình thành Các Trung tâm Khu vực EB-5. Các Trung tâm Khu vực là các doanh nghiệp được Sở Nhập tịch và Di trú Mỹ (USCIS) chỉ định quản lý các khoản đầu tư EB-5 và tạo ra công ăn việc làm.
Những cải cách đối với Visa EB-5 trong thập kỷ 90
Một vài cải cách quan trọng đã được thực hiện đối với chương trình EB-5 vào cuối thập kỷ 90. Những thay đổi này được đưa ra do phát hiện được sự lỏng lẻo trong quá trình thực thi điều lệ và sự gian lận trong các dự án đầu tư EB-5. Quyết định của Toàn án Khu vực của Mỹ về vụ U.S. v. O’Connor đã phát hiện ra các kế hoạch đầu tư EB-5 gian lận. Ban kháng cáo của USCIS, Văn phòng kháng cáo hành chính (AAO), đã ban hành những cải cách đối với các thủ tục EB-5 vào năm 1998. Những thay đổi này yêu cầu các nhà đầu tư chứng minh rằng vốn đầu tư EB-5 có từ nguồn hợp pháp, rằng họ đích thân liên quan đến dự án EB-5, và chúng nghiêm cấm bảo lãnh doanh thu đầu tư. USCIS đã cố gắng áp dụng những quy định mới này có hiệu lực với những vụ kiện EB-5 trước đây. Tuy nhiên, phán quyết trong vụ Chang v. U.S. đã làm cho thủ tục này trở nên bất hợp pháp. Số lượng ứng viên EB-5 đã giảm đi đáng kể sau khi những quy định mới này được ban hành.
Có 4 quyết định quan trọng đầu tiên đã được đưa ra bởi Văn phòng kháng cáo hành chính của USCIS (AAO) trong những năm 90 với nỗ lực đảm bảo rằng các quy định về EB-5 được áp dụng đồng đều đối với tất cả những đơn xin mới. Ví dụ, nếu một vấn đề mà không được xử lý trước đó trong đơn EB-5 lại được quyết định theo một cách nào đó, thì những đơn về sau có cùng vấn đề sẽ được giải quyết tương tự. Khi AAO đưa ra quyết định trong đơn EB-5 mà sẽ ảnh hưởng đến những đơn về sau theo cách này thì những quyết định đó được gọi là quyết định đầu tiên. Bốn quyết định đầu tiên quan trọng của thập kỷ 90 vẫn ràng buộc đối với các đơn EB-5 hiện tại là Quyết định Ho, Quyết định Izummi, Quyết định Hsiung, và Quyết định Soffici. Trong những quyết định này, AAO đã đưa ra những quyết định quan trọng về những quy định của chương trình bao gồm loại doanh nghiệp thương mại mà có thể nhận khoản đầu tư EB-5, sự hợp lệ của nguồn tài trợ, và cách quản lý khoản đầu tư.
Những cải cách đối với EB-5 Visa trong những năm 2000
Quốc hội đã thông qua Đạo luật Gia hạn và Mở rộng Chương trình Thí điểm Cơ bản năm 2003 để giúp đem lại sức sống cho chương trình EB-5. Đạo luật này yêu cầu Văn phòng Kế toán Chính phủ (GAO) tiến hành điều tra kỹ lưỡng chương trình EB-5 visa. Cuộc điều tra này cho thấy chỉ một phần nhỏ trong số 10.000 visa được phân bố cho chương trình EB-5 là thực sự được cấp hàng năm. Sự phát hiện này đã thúc giục nhiều cải cách hơn cho chương trình. Một cải cách trong năm 2005 là thành lập Ban Đầu tư và Trung tâm Khu vực (IRCU). Ban chuyên môn này của USCIS thực hiện công việc giám sát chương trình EB-5 bao gồm thẩm tra trường hợp cụ thể, thiết kế đơn, thiết lập quy định và chính sách. Việc thành lập Ban IRCU đã dẫn đến sự phối hợp tốt hơn và tăng độ đáng tin cậy trong chương trình.
Những thay đổi trong chính sách EB-5
USCIS đã ban hành hướng dẫn chính sách sửa đổi EB-5 trong năm 2009. USCIS tập trung xử lý EB-5 tại Trung tâm Dịch vụ California (CSC) mà trước đó nó được thực hiện tại hai trung tâm khác nhau – California và Texas.